Tên di sản : Lễ hội Cầu Ngư
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di sản :
Lễ hội truyền thống
Sô quyết định : 3421/QĐ-BVHTTDL
Danh mục di sản: Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia,
Giới thiệu
V. MIÊU TẢ VỀ DI SẢN PHI VẬT THỂ:
1. Vài nét về vị trí địa lý:
Làng Diêm phố xưa, xã Ngư Lộc hiện nay nằm về phía đông kênh De, thuộc vùng cửa biển Lạch Trường (Hậu Lộc), ở vào vị trí 19,56 độ vĩ Bắc và 105,58 độ kinh Đông - cửa ngõ đón các loại gió mùa và giông bão. Ngư Lộc là một trong 6 xã làm nghề đánh cá, nuôi trồng thủy sản và làm các nghề thủ công nghiệp xuất khẩu của huyện Hậu Lộc, có địa hình nằm sát mép nước biển. Phía tây cài răng lược với xã Minh Lộc, phía bắc giáp xã Đa Lộc và xã Hưng Lộc, phía nam giáp xã Hải Lộc và một phần xã Minh Lộc. Phía đông mặt tiền là biển Lạch Trường, có đường mép nước dài 1,2km, được ngăn cách với đất liền bằng một con đê biển có nhiệm vụ ngăn sóng và nước biển gây ngập úng đối với các điểm dân cư. Diện tích tự nhiên hiện nay là 0,47ha. Dân số có khoảng 10.000.000 nhân khẩu.
Do tác động của sóng biển và gió bão, hằng năm bờ biển Ngư Lộc thường xuyên bị xói lở, bình quân trên dưới 10m ăn sâu vào đất liền đã làm cho địa hình ở đây luôn có sự thay đổi về kích thước và diện tích. Theo thời gian, Diêm Phố Ngư Lộc mỗi ngày một lùi dần về phía tây và tây tây bắc nên đã xa dần hai cửa sông lạch Sung ở phía bắc và Lạch Trường ở phía nam. Cư dân đông đúc, đất đai ngày càng thu hẹp, thiếu đất ở. Trước tình hình đó, năm 1927 Tri huyện Lê Dục Hinh đã dàn xếp với làng Yên Giáo (Minh Lộc) cấp cho Diêm Phố (xã Ngư Lộc) 36 mẫu đất để ở. Bởi vậy người dân Ngư Lộc dần dần bị đẩy lùi vào trong sống xen kẽ với nhân dân xã Minh Lộc và Hưng Lộc. Vì vậy mà Ngư Lộc ngày nay nhìn trên bản đồ giống như hình thang, đáy nhỏ là phần đất ăn sâu vào địa phận xã Minh Lộc (rộng 600m), đáy lớn là mặt biển (rộng 1200m).
Nằm ở vị trí bãi ngang, Ngư Lộc có phần biển thuộc vùng biển Lạch Trường bao gồm 5 cửa sông [sông Lạch Trường, Lạch Sung (Thanh Hoá), sông Lạch Càn, sông Đáy, sông Ninh Cơ (Ninh Bình, Nam Định)], vì thế mà châu thổ bồi thải hằng năm một lượng phù sa tương đối lớn ra biển mang theo nguồn thức ăn dồi dào cho tôm cá. Chính vì vậy mà ngư trường ở đây tương đối nhiều tôm cá các loại như: cá thu, cá lụ, cá chim, cá nhám, cá dưa, cá khoai, tôm bột, tôm sắt, tôm he, tôm hùm...con moi cũng là đặc sản quý của Ngư Lộc thường dùng để làm mắm. Ngoài ra, các loài mực, cua, ghẹ, ốc, sò, ngao, phi, hầu...cũng là đặc sản có giá trị dinh dưỡng và giá trị kinh tế cao.
Lạch Sung cũng là một cửa biển quan trọng đối với Ngư Lộc nói riêng và Hậu Lộc nói chung. Đây là cửa của sông Lèn - một phân lưu của sông Mã được bắt nguồn từ vùng núi cao Phouei (Lào). Trước đây của biển Lạch Sung thuộc xã Diêm Phó tổng Đăng Trường, huyện Hậu Lộc, phủ Hà Trung, có chiều rộng khoảng 400 - 500m, độ sâu từ 5 - 7m; có tốc độ bồi lắng phù sa mạnh nên hàng năm tiến dần ra biển đã tạo nên cho Diêm Phố một không gian rộng lớn. Do vậy mà nghề làm ruộng, làm muối và đánh cá phát triển. Về sau do sự thay đổi điều kiện tự nhiên nên Ngư Lộc không còn ở vị trí cửa sông nữa. Nghề làm muối và làm ruộng dân mất đi, chỉ còn ngư nghiệp là có điều kiện thuận lợi để phát triển.
Cùng với đất liền, bờ biển và ngư trường thì cách bờ biển Ngư Lộc khoảng 5km về phía Đông còn có đảo Nẹ. Hòn đảo này có diện tích khoảng 1km, độ cao so với mặt nước biển 70,8m, được xem là vị trí tiền tiêu của tỉnh Thanh Hóa về quân sự nói chung, huyện Hậu Lộc và xã Ngư Lộc nói riêng. Đảo Nẹ còn là cột mốc chỉ đường cho tàu thuyền ngoài khơi trở về bến. Về phía nam còn có hòn Sụp, hòn Bò và dãy núi Trường là những điểm dừng chân lý tưởng cho các thuyền đánh cá ngoài khơi về trú ngụ khi gặp giông bão. Ngoài ra ở đây còn có cửa biển Lạch Trường, xưa kia nổi tiếng là thương cảng có nhiều thuyền buôn, thuyền đánh cá trong và ngoài nước ra vào buôn bán trao đổi hàng hoá.
2. Quá trình hình thành làng, xã và dân cư.
Vào thế kỷ X, đời vua Lê Đại Hành đã có chủ trương đưa dân đi khai hoang. Vua cử tướng Lê Phúc đi thị sát một số vùng ven biển phía Bắc và miền Trung nhằm phát triển kinh tế và bảo vệ đất nước. Trong thời kỳ đó, vùng ven biển Thuần Lộc (Hậu Lộc ngày nay) số dân đến ở không đáng kể.
Sau chiến thắng quân Nguyên lần thứ 2, năm Ất Dậu (1285) vua Trần Nhân Tông cho phép một số dòng họ đi khẩn hoang lập làng mới ở ven biển các huyện ở Thanh Hoá. Trong đó họ Bùi có nguồn gốc từ Hà Đông (Hà Tây cũ), họ Trần có nguồn gốc tổ tiên từ Kiến Xương (xưa thuộc Sơn Nam Hạ nay thuộc tỉnh Thái Bình) đem theo nghề cá và nghề muối vào vùng Diêm Phố (Ngư Lộc) và Lạch Trường (Hải Lộc) để lập làng mới, đồng thời mở mang thêm nghề nghiệp.
Thời Trần, Diêm Phố (Ngư Lộc) mới có một số gia đình sinh sống trên các cồn nổi ở ven biển. Đến thời Lê Trung Hưng, theo Gia phả họ Phạm cho biết “Diêm Phố đã trở thành một xã”. Cuối thời Lê đầu thời Nguyễn, trong cơ cấu tổ chức hành chính các cấp, Diêm Phố là một xã thuộc tổng Đăng Trường, huyện Phong Lộc, phủ Hà Trung, trấn Thanh Hoa'. Dưới thời vua Đồng Khánh (1885 – 1888), xã Diêm Phố thuộc tổng Đăng Trường, huyện Hậu Lộc, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa
Sau Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945, để củng cố thành quả cách mạng vừa mới giành được, Diêm Phố được đổi là đơn vị hành chính cấp xã gọi là xã Cao Thắng. Sau cuộc tổng tuyển cử toàn quốc tháng 1/1946, Hậu Lộc tổ chức lại các đơn vị hành chính, xã Cao Thắng được sát nhập vào xã Tiến Thịnh, Đồng Lạc thành xã Vạn Lộc; là một trong 10 xã của huyện Hậu Lộc. Đến tháng 4 năm 1954, để thuận lợi cho việc lãnh đạo, chỉ đạo, huyện Hậu Lộc chia lại địa giới hành chính cấp xã. Toàn huyện có 10 xã, nay chia thành 26 xã, trong đó xã Vạn Lộc được chia thành 4 xã mới gồm: Đa Lộc, Hưng Lộc, Minh Lộc và Ngư Lộc (Diêm Phố). Theo các cụ cao tuổi ở xã Ngư Lộc lý giải "ngư" là chỉ nghề đánh cá, còn "Lộc" gắn với tên huyện Hậu Lộc. Xã mới Ngư Lộc có 14 xóm: Thắng Bắc, Thắng Tây, Thắng Nam, Thắng Vinh, Thắng Vương, Thắng Đông, Thắng Phúc, Thăng Lộc, Thăng Thịnh, Thắng Cường, Thắng Thành, Thắng Minh, Thắng Đức và Thắng Lợi. Mỗi xóm có một trưởng xóm điều hành.
Hiện nay ở xã Ngư Lộc có hơn 90 dòng họ và gần 100 Nhà thờ họ, là một địa phương có thành phần dân cư phức tạp.
3. Truyền thống lịch sử và văn hoá:
Truyền thống lịch sử: Căn cứ vào các tộc phả (bằng chữ Hán) của các dòng họ (như họ Đặng, họ Phạm, họ Chu) thì mảnh đất Diêm Phố có dân cư đến đây sinh sống trên cồn cát nổi là Cồn Bò, cạnh cửa sông Linh Trường trong các thế kỷ XII – XIII. Cửa sông Linh Trường là một nhánh của sông Mã từ huyện Hoằng Hóa chảy vào Hậu Lộc (còn có tên là cửa Lạch Trường hay cửa Y Bích xưa đây là dòng chính của sông Mã). Cửa Lạch Trường đã mở ra một vùng hải phận rộng lớn trước mặt. Bờ nam có núi Trường và các đảo nhỏ: hòn Bò, hòn Sung, hòn Nẹ tạo thành một cánh cùng án ngữ sóng gió mặt phía nam và phía đông. Những điều kiện thuận lợi đó, con người về đây sinh sống, làm ăn.
Khoảng thế kỷ I, II (trước Công nguyên) thành lũy huyện Dư Phát thuộc quận Cửu Chân đã xây dựng tại đây. Vào những thế kỷ trước và sau công nguyên, cửa Lạch Trường đã từng là thương cảng quan trọng trên con đường hàng hải quốc tế đến các nước Đông Nam Á và Ấn Độ. Đặc biệt, dưới các triều đại phong kiến Việt Nam, mỗi lần hành binh về phương Nam dẹp giặc, thủy quân ta đều lấy cửa biển Lạch Trường làm cứ điểm xuất phát vì đây là cửa biển kín đáo, có thể cất giấu hạm thuyền yên ổn. Chính vì thế, cửa biển Linh Trường còn là nơi vua tôi, tướng lĩnh các triều đại đã để lại dấu ấn lịch sử tại mảnh đất này sau những lần hành quân chinh phạt phương Nam:
Năm 1297, sau khi chiến thắng quân Chiêm Thành ở phương Nam, vua Trần Anh Tông đã cho lập đền thờ ở 12 cửa biển quan trọng, trong đó có cửa biển Linh Trường;
Năm 1418 Tướng quân Cao Đáp hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi đã lập nên chiến công lớn ở cửa biển này;
Thời Hậu Lê, nhiều lần các vua và Hoàng Thái hậu về bái yết Sơn Lăng (Lam Kinh), đều từ cửa biển Linh Trường ngược sông Mã về Tây kinh;
Vua Lê Thánh Tông có lần đi qua Diêm Phố, cảm hoài về cảnh đẹp nơi đây đã để lại bài thơ vịnh cảnh “Linh sơn hải khẩu” được ghi chép trong “Hồng Đức quốc âm thi tập”; - Ngày nay, cửa biển Linh Trường đã bị biển bồi lấp nhiều (chỉ còn rộng 70 – 80m và sâu từ 6 – 7m), không còn hút tầm mắt, và người dân Diêm Phố cũng ít sử dụng cửa biển này.
Cùng với trang sử mở đất (khai hoang lấn biển), người dân Diêm Phố trong các cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc cũng đã có những đóng góp quan trọng về sức người, sức của để làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (1954) và chiến dịch Mùa xuân (1975) thu non sông về một mối.
Ngày nay trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, nhân dân Diêm Phố - Ngư Lộc đã thay đổi nhanh chóng phương tiện đánh bắt hải sản để đánh bắt xa bờ, vì thế mà sản lượng cá tôm đánh bắt được đã trở thành một nguồn hải sản lớn phục vụ cho xuất khẩu, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, làm thay đổi diện mạo một vùng đất.
Truyền thống văn hóa: Do địa bàn sinh sống men theo bờ biển, điều kiện sinh sống chủ yếu phụ thuộc vào con thuyền tấm lưới, đánh bắt hải sản trên biển, thu hoạch thất thường, sự nguy hiểm, lắm rủi ro là không thể lường trước đã làm cho ngư dân ở đây hình thành nên một truyền thống tín ngưỡng là tin tưởng và trông chờ vào các thế lực siêu nhiên (thần linh) nên họ đã coi trọng và hết sức thành tâm với việc thờ cúng để cầu bình an và gặp nhiều may mắn. Vì thế, mà tôn giáo tín ngưỡng của ngư dân ở Diêm Phố Ngư Lộc vừa có nét chung vừa có đặc thù riêng.
Về tôn giáo, tín ngưỡng: Do đặc điểm của nghề nghiệp chủ yếu là đánh bắt cá tôm trên biển, từ xa xưa biển nơi đây thật hào phóng đã ban tặng cho người dân Ngư Lộc nhiều tôm, cá đem lại cho họ cuộc sống ấm no. Song không phải lúc nào biển cũng hiền hoà và ưu ái với con người nơi đây như vậy. Khi biển giận dữ cũng là lúc những tai hoạ sẽ ập tới, đe doạ tính mạng và tài sản của con người. Do vậy cư dân Ngư Lộc đã sớm có tư tưởng sùng bái, tôn thờ các lực lượng siêu nhiên, các vị thần linh, xem đó là chỗ dựa tinh thần, là nơi để bấu víu trong những lúc nguy nan, họ tin vào sự khẩn cấu thành tâm sẽ được các thần linh bảo hộ. Ngoài truyền thống thờ cúng tổ tiên như cư dân nội đồng thì những vị thần mà ngư dân Ngư Lộc đặc biệt sùng bái đó là Đức Phật và những vị thần biển như: Đức vua Thông Thuỷ, Cá Ông, Tứ vị Thánh nương, Đông Hải Đại Vương...
Đối với phong thủy, người dân ở đây không chỉ xem ngày giờ tốt để tiến hành đào móng làm nhà mà còn xẻ ván đóng thuyền, hoặc lúc hạ thuỷ thuyền bè được xem là những ngày rất quan trọng. Bởi vậy ngoài cúng gia tiên, gia chủ còn mời thầy cúng trong làng về để làm lễ cúng hà bá, vong hồn người chết biển do gặp bão và giải hạn, họ còn phải sắm lễ lên đền cúng Đức Ông, Tứ Vị Thánh Nương, Đức vua Thông Thuỷ...những vị thần liên quan đến nghề biển. Khi đánh được nhiều tôm cá hoặc không đánh được gì đều phải sắm đồ lên nghề làm lễ. Được thì tạ ơn thánh thần và khao thợ, bạn bè; không được thì cầu xin phù hộ cho may mắn lần sau.
Chính từ trên nền tảng này đã hình thành nên nếp sống văn hóa tinh thần của ngư dân Diêm Phố hết sức độc đáo đó là: Lễ hội Cầu ngư, lễ tế hạ thuỷ, tục thờ Cá Ông...ác lễ hội này không chỉ để tạ ơn các vị thần linh đã phù hộ che chở cho dân làng trong cuộc sống nghề nghiệp của mình mà còn là dịp để dân làng sinh hoạt văn hóa cộng đồng với những trò chơi dân gian độc đáo, đặc sắc.
Văn hoá tinh thần của cư dân Ngư Lộc còn được thể hiện khá phong phú trong lĩnh vực ngôn ngữ, văn học nghệ thuật như ca dao, tục ngữ, hò vè, tri thức dân gian trong nghề nghiệp đánh bắt tôm cá, kinh nghiệm trong phán đoán thời tiết cũng như nắm bắt khá rõ về đặc tính của từng loài tôm cá. Diêm Phố - Ngư Lộc còn là vùng đất bảo tồn được nhiều Gia phả, tộc phả, sắc phong, đại tự, câu đối (bằng chữ Hán) có giá trị vv...
4. Quá trình ra đời, tồn tại của di sản:
4.1. Hoàn cảnh ra đời:
Cầu ngư là một loại hình lễ hội dân gian gắn liền với tín ngưỡng và đời sống của ngư dân ven biển miền Trung, miền Nam nước ta. Cũng như ngư dân các vùng biến khác, người dân vùng biển Diêm phố là những con người sống gắn bó với biển, phụ thuộc vào biển. Trước đây, bên cạnh nghề cá, người dân Diêm Phố còn làm nghề muối (nên mới có tên là Diêm Phố), nay nghề muối không còn, họ đã chọn nghề đánh cá biển làm nguồn sống chính. Trước biển cả bao la, nơi đầu sóng ngọn gió, người dân Diêm phố thấy mình nhỏ bé, luôn khát vọng biển khơi gió lặng sóng yên nên họ ước mơ có những vị thần linh che chở cho cuộc sống bình yên, hạnh phúc, tàu bè ra khơi vào lồng tôm cá đầy thuyền vì vậy mà họ đã lập nên ở đây một hệ thống nghè, chùa, miếu, phủ để thờ cúng các vị thần liên quan đến biển cả và tổ chức lễ hội Cầu Ngư hàng năm.
4.2. Thời gian và địa điểm thực hành di sản:
Lễ hội Cầu Ngư có từ rất lâu đời và được tổ chức đều đặn hằng năm vào các ngày 21 – 24 tháng Hai (Âm lịch).
Lễ hội được tổ chức ở vị trí ngoài trời (trước đây là một bãi đất rộng nằm ở trung tâm làng nay là sân văn hóa của xã) hướng mặt ra biển - nơi đặt đàn tế và tổ chức các trò diễn dân gian.
Lễ hội Cầu Ngư do toàn bộ nhân dân Ngư Lộc tham gia.
4.3. Quá trình chuẩn bị:
Họp dân làng chuẩn bị cho Lễ hội Cầu Ngư. Dân làng phải họp để bàn bạc chuẩn bị những điều kiện cho lễ hội trước đó hàng tháng. Bởi lẽ ngoài việc tế lễ rước sách như các nơi khác, lễ hội Cầu Ngư ở làng Diêm Phố còn phải tổ chức làm Long Châu, đòi hỏi phải đầu tư nhiều công sức và tiền bạc (dưới thời phong kiến, do Lý trưởng, Hương dịch cùng Hội đồng họ tộc trong làng bàn bạc và cắt cử, còn bây giờ do Đảng ủy, UBND xã Ngư Lộc chủ trì, với sự tham gia của các đoàn thể và Hội đồng họ tộc trong làng xã). Việc tổ chức lễ hội to hay nhỏ còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế của mỗi năm. Trước đây, những năm không thuận mưa, gió làng tổ chức to hơn để cầu yên, cầu mát; hiện nay vào những năm lẻ thì làng chỉ làm lễ ở các đền miếu trong làng, còn năm chẵn theo lệ làng mở hội lớn.
Kinh phí tổ chức lễ hội: nhân dân đóng góp; các dòng họ đóng góp; nguồn kinh phí của những người hảo tâm; kinh phí văn hóa xã hội (lấy từ ngân sách xã) và kinh phí được hỗ trợ từ tỉnh, huyện.
Nhân lực: bao gồm toàn thể nhân dân trong làng, đầy đủ các thành phần sĩ, nông, công, thương. Là một xã có đặc điểm “nhất xã nhất thôn” nên việc của làng cũng là việc của xã. Đảng ủy, UBND xã Ngư Lộc giao cho Phó Chủ tịch UBND xã làm trưởng ban tổ chức và điều hành lễ hội và thành lập 11 tiểu ban nhỏ gồm: tiểu ban khánh tiết, tiểu ban làm Long Châu, tiểu ban kinh tế, tiểu ban bảo vệ, tiểu ban vệ sinh môi trường, tiểu ban tổ chức phần hội, tiểu ban bảo vệ Long Châu trên đường rước kiệu, tiểu ban bảo vệ Long Châu tại lễ đài, tiểu ban phụ trách rước kiệu, tiểu ban phụ trách điện, loa đài, ánh sáng; tiểu ban làm rạp che.
4.4. Luyện tập và làm đồ tế lễ.
4.4.1. Luyện tập: lễ hội Cầu Ngư năm nào cũng tổ chức giống nhau, tức là có phần lễ và phần hội. Các bộ phận trong phần tế lễ như đội tế nam, tế nữ, phường bát âm, đội cờ trống vv...đều phải luyện tập hàng tuần.
Cùng với việc luyện tập nội dung tế lễ, Trưởng ban khánh tiết cùng các cụ trông coi đền nghề kiểm tra lại các cỗ kiệu, các đồ tế khí và phải lau chùi sạch sẽ để cho ngày lễ hội được diễn ra trang trọng.
4.4.2. Làm Long Châu (đồ tế lễ:
Long Châu là một chiếc thuyền rồng, một lễ vật đặc trưng không thể thiếu trong lễ hội Cầu Ngư. Nói một cách khác, đây là một chiếc thuyền thờ hình rồng được mô phỏng chức năng, quyền lực của các vị thần vùng sông biển và chứa đựng những lễ vật cùng với lời thỉnh nguyện của người dân. Trong các công việc chuẩn bị cho lễ hội thì việc làm Long Châu là quan trọng hơn cả vì đây là vật thiêng dùng để cúng tế chính trong suốt thời gian diễn ra lễ hội.
Thợ làm Long Châu khoảng từ 10 – 12 người, những người này không chỉ có tay nghề khéo léo mà phải là người có đức hạnh tốt, gia đình hạnh phúc, trong năm đó không có tang cớ. Những người thợ này tuy đã được dân làng chọn ra nhưng mỗi người vẫn phải có lễ phẩm lên xin thần linh ở khu đền, nghè, chùa, miếu xem thần linh có đồng ý không?. Nếu thần linh không đồng ý thì người đó tự nguyện không làm công việc này nữa.
Quy trình làm Long Châu chia làm hai phần, cụ thể như sau:
Phần Hội đồng tiền thánh: đó là những chiếc mũ mô phỏng thế giới thần linh được đặt theo thứ tự từ cao xuống thấp gồm:
Tam Tôn (3 mũ): chỉ nhà Phật (Hệ thống nhà Phật, mũ là hình khối chữ nhật có dáng dấp như mũ bình thiên. Trên mũ được trang trí bằng hình tượng cây lá, chim muông (biểu hiện tính từ bi) nhưng cũng hàm chứa “Phật pháp vô biên”);
Ngọc Hoàng (3 mũ): gồm Ngọc Hoàng ở giữa, hai bên là Nam Tào, Bắc Đẩu (đối với mũ của Ngọc Hoàng lại khác – mũ được biểu hiện quyền lực tối thượng bằng những chiếc lông vũ cách điệu. Còn mũ Nam Tào và mũ Bắc Đẩu được thể hiện cách riêng của những vị thần phụ tá cho Ngọc Hoàng);
Tiên Thánh (3 mũ): gồm Tiên Thánh ở giữa và hai bên là Tả tăng niên và Hữu tăng niên cảnh (Mũ của Hội đồng Tiên Thánh được trang trí giống như mũ của hệ thống nhà Phật. Bên tả hữu của Tiên Thánh có mũ của Tả Tăng niên và Hữu Tăng niên cảnh);
Tổng ôn (5 mũ): trên cùng là Tổng Ôn (Tổng Binh), còn 4 bên là đông, tây, nam, bắc (4 phương). Mũ của hệ thống Tứ Phương Đông, Tây, Nam, Bắc) lại được thể hiện những đặc trưng riêng của các vị thần bằng hoa văn trên chiếc lông vũ (phía nam màu trắng, phía bắc màu đỏ);
Bát Hải (3 mũ): đây là hệ thống thần biển. Tuy ở địa vị thấp nhất nhưng là thần gần gũi nhất của ngư dân. Tổng cộng có 17 mũ được làm cùng với Long Châu ruốc tế và hóa cùng Long Châu. Việc chế ra các mũ này không những đòi hỏi người thợ phải có bàn tay khéo léo để tạo nên những họa tiết, hoa văn trang trí trên mũ mà người thợ phải có cách nhìn truyền thống về vũ trụ quan, về tín ngưỡng để thể hiện quyền năng của các loại thần. Cuối cùng là chiếc mũ của thần Bát Hải (Thần cai quản biển khơi), ở trên chiếc lông vũ của thần Bát Hải là hình sóng nước cách điệu.
Sơ đồ và thứ tự các cỗ mũ được bố trí như sau:
1, 2, 3: Mũ Tam bảo Phật;
4: Mũ Ngọc Hoàng;
5: Mũ Thánh Mẫu;
6: Mũ Nam Tào;
7: Mũ Hội đồng;
8: Mũ Bắc Đẩu;
9: Mũ Đức vua Thông thủy;
10: Mũ Tú vị vua bà;
11: Mũ Sơn tiêu Độc cước;
12: Mỹ Hưng Đạo Trần triều;
13: Mũ Đương niên Hành khiển;
14: Mũ Đương cảnh Thành hoàng; 15a, 15b, 15c, 150, 15e: Mũ chư vị Chúa Ôn;
16: Mũ Quan Bồng Đại tướng;
17: Mũ Ngư Ông;
18: Mũ Đại lộ;
19: Mũ Bát hải;
20: Mũ Thần linh;
21: Mũ Thổ địa.
(Tư liệu do cụ Nguyễn Văn Minh, 83 tuổi- Trưởng ban Quản lý Di tích cụm di tích Diêm Phố, Trưởng Ban Khánh tiết, người trực tiếp thực hành lễ hội cung cấp)
Tóm lại: với tài năng và tín ngưỡng thờ phụng thần linh, các nghệ nhân làng Diêm Phố với cách quan niệm của mình về thế giới thần linh, họ đã tạo nên một Hội đồng Tiên Thánh để phục vụ đoàn rước Long Châu. Đây là một quan niệm về vũ trụ quan, đồng thời cũng là sự thể hiện những khả năng sáng tạo của các nghệ nhân dân gian.
Làm Long Châu:
Làm Long Châu là một phần quan trọng nhất trong lễ hội Cầu Ngư, nhằm đáp ứng những ước muốn của ngư dân - những người trực tiếp lênh đênh trên biển cả. Đây là nét riêng, khác với các lễ hội dân gian khác.
Quá trình tạo ra Long Châu cần phải có một thời gian dài với số lượng thợ đông, lành nghề và bị ràng buộc bởi các nghi thức tâm linh nghiêm ngặt. Trước khi làm Long Châu, người ta phải dựa vào tuổi của người đứng đầu lễ hội (Lý trưởng, hoặc phó lý trưởng; nếu hai người trên không được tuổi thì phải lấy tuổi của ông chủ tế). Người chủ lễ cũng như chủ tế phải là người có uy tín với dân làng, trong năm gia thất không có tang cớ.
Long Châu thực chất là chiếc thuyền rồng. Thuyền rồng được làm bằng luồng, nứa, giấy màu, xốp và phẩm màu, được quan niệm như một chiếc bàn thờ để mỗi người được thể hiện lời ước nguyện cũng như tiến cúng cho thần Đại Hải (qua Long Châu), mong các thế lực trị vì biển khơi phù hộ cho họ trong cuộc sống trên biển khơi. Long Châu chỉ tồn tại trong thời gian mở lễ hội và nó sẽ được hóa đi (gửi cho thần linh) khi lễ hội kết thúc.
Vật liệu để làm Long Châu gồm 30 cây luồng, 30 cây nứa, các loại giấy, phẩm màu, chất liệu xốp và dây rợ các loại. Kích thước của Long Châu (to hay nhỏ) tùy thuộc vào năm đó làng tổ chức tiểu lễ hay đại lễ. Nếu là tiểu lễ thì Long Châu chỉ dài từ 7 đến 9m; là đại lễ thì Long Châu dài trên 13m và được làm theo phương thức trực ngũ (chiều dài 13,7m, chiều cao 9m). Toàn bộ Long Châu được đặt trên một chiếc giá có đòn khiêng (25 người khiêng).
Quy trình làm Long Châu có rất nhiều khâu, trong đó người thợ cả có trách nhiệm cắt cử tổ thợ của mình làm những phần khác nhau như: tổ chịu trách nhiệm làm thân của con thuyền, tổ làm đầu rồng, tổ làm các ông tượng, tổ làm các con vật như tôm, cá, cua, mực, cụ thể như sau:
Các tượng người được làm để gắn lên thuyền có 15 ông tượng gồm 13 tượng nam và 3 tượng nữ, trong đó gồm có:
01 tượng ông Công Minh (gọi là ông Đô đốc);
02 tượng Hán Văn và Hán Vũ (ông vẫy mưa, ông vẫy gió); 01 tượng ông Tổng lái (người cầm lái, ngồi phía sau);
01 tượng ông Tổng mũi (người dẫn đường, hoa tiêu);
02 tượng nàng hầu (người mặc áo xanh, người mặc áo trắng);
08 tượng binh lính chèo thuyền, mỗi bên gồm 4 người. Trên thuyền còn có các loại vũ khí như súng ống, giáo mác tượng trưng;
Các con vật được làm để đi cạnh Long châu gồm 02 con Tôm, 02 con cua, 02 con cá chép, 02 con mực. Khi rước Long Châu các con vật này được sắp xếp đi trước đi sau: trước tiên là hai con tôm, sau là hai cá chép, tiếp theo là hai con cua và cuối cùng là hai con mực;
Các vật dụng được chuẩn bị cho những người đi biển để trên Long châu gồm á gạo, muối, thuốc lào, nước uống và một quả bí ngô. Điều độc đáo mà những người dân đi biển nơi đây xưa kia luôn mang theo trên thuyền những quả bí ngô vì đề là loại quả được dùng phổ biến, dễ tìm. Bí ngô mang theo trên thuyền để được rất lâu mà không bị hỏng, loại quả này có thể nuôi sống người và có thể ăn sống hoặc ăn chín. Và điều cuối cùng quan trọng hơn cả là khi không may thuyền bè ngoài biển khơi có gặp giông bão, tính mạng bị đe dọa thì những quả bí ngô này lại trở thành những cái phao cứu sinh, ngư dân nhờ những quả bí ngô này mà không chết đuối, có thể đảm bảo được mạng sống của mình.
Những bộ phận của Long Châu làm xong đến đâu, những người thợ phải chọn ngày đẹp để gắn lên Long Châu và làm lễ yên vị, đầu rồng khi được lắp vào Long Châu cũng phải chọn giờ đẹp.
Điểm nhãn Long Châu là công việc vô cùng quan trọng. Long Châu làm xong thì để nguyên tại chỗ, gần đến ngày Lễ hội, vị Trưởng ban khánh tiết (là người có uy tín, hiểu biết thấu đáo và quản lý toàn bộ những công việc lễ nghi cho lễ hội) chọn một giờ tốt vào ban đêm để làm lễ điểm nhấn cho Long châu. Trong suốt quá trình làm Long Châu, khu vực làm Long Châu phải được cách ly, những người không có trách nhiệm không được vào, thợ làm Long Châu khi làm phải hết mực cung kính. Nếu thợ làm và những người đi qua không được sạch sẽ, cung kính sẽ bị thần linh quở trách và trong nhà sẽ xảy ra việc không yên.
4.5. Chọn nhà Trọ và sắm lễ phẩm:
4.5.1. Chọn nhà trọ: Nhà trọ là địa điểm làm lễ phẩm cho Lễ hội. Các chức sắc và hương lão trong làng phải họp bàn để chọn một gia đình làm nhà trọ. Những gia đình được chọn làm nhà trọ phải có tiêu chuẩn như sau:
Làm ăn phát đạt, có nếp sống kỷ cương, con cháu đề huề, gia đình hạnh phúc;
Ít nhất phải có ba thế hệ chung sống;
Trong ba năm liên tục gia đình đó không có tang có;
Gia đình đó có người biết đi mua sắm lễ vật.
Gia đình được chọn làm nhà trọ là niềm vinh hạnh lớn, họ tin rằng từ nay sẽ làm ăn phát đạt, có sự hộ hành của Đức Thánh, có sự yêu mến giúp đỡ của dân làng nên mọi người trong gia đình đều thành tâm góp sức để cùng làm những mâm cỗ thật đẹp và thật ngon.
4.5.2. Sắm lễ phẩm:
Lễ phẩm thờ Tứ vị Thánh Nương gồm: một mâm hoa quả, trầu, rượu, vàng huơng, một mâm cỗ mặn gồm có xôi, oản, thịt lợn, thịt gà, thịt vịt. Theo quan niệm của ngư dân ở đây thì con gà là thể hiện sức mạnh, nhạy cảm và cần xem chân gà để đoán vận mệnh của làng trong năm. Con vịt chuyên mò cua bắt cá, bắt ốc để kiếm sống gắn bó với nghề đánh bắt cá biển. Riêng lễ Phật ở chùa làm một mâm cỗ chay, còn các cỗ khác thì có xôi, thịt lợn luộc, gà luộc, trầu, rượu, vàng hương.
4.6. Khảo tả Long Châu:
Đứng trước Long Châu có hai Hộ pháp tay cắp long đao, mặt mày dữ tợn (được đặt trên đế có bánh xe để đẩy). Nhiệm vụ của hai hộ pháp là dẹp đường để trấn tà ma, quỷ dữ hộ giá Long Châu về đàn lễ.
Long Châu được chia làm hai phần chủ yếu lái và mũi: Ở mỗi phần đều có người chỉ huy gọi là ông tổng lái và ông tổng mũi. Phần tổng lái có 3 tầng: tầng trên mắc một chiếc võng dành cho tổng lái nghỉ ngơi, hai tầng dưới trải chiếu hoa. Bên ngoài khu tam tòa là tượng tổng lái ngồi trên chiếc ghế có lọng đỏ che nắng. Hai bên là tượng hai cô gái giữ tay hòm chìa khóa. Đằng trước lộng là một cái tàn dành cho giám quan có thần vẫy mưa và thần gọi gió. Hai bên mạn thuyền có hai lá cờ để chữ “Thủy Thông” và tượng Tám cô gái chèo thuyền.
Khu thứ hai gọi là tổng mũi. Phần này cũng có hai tầng, tầng trên có lọng xanh dành cho ông tổng mũi; tầng 1 có trống phách và khí giới, đầu mũi thuyền là một lá cờ đại, xung quanh thuyền là long, ly, quy, phượng và các loài sinh vật biển (tôm, cua, cá). Sáu lá cờ ngũ sắc có chữ “Thuận phong”được cắm ở hai bên mạn thuyền.
Người ta sử dụng vật liệu xốp để cắt gọt tạo nên toàn bộ phần kiến trúc trên thuyền. Đó là những tòa tháp ba tầng (phần tổng lái) cùng với bài trí hoa văn phù điêu tượng hình người với tướng mạo, chức năng của mỗi vị thần. Ở phần vỏ thuyền cũng được trang trí nhiều họa tiết của thủy cung.
Bắt đầu khai trương làm Long Châu là đánh dấu thời khắc thiêng liêng tại nơi này. Bởi vậy cứ vào thời khắc chuyển ngày (12h đêm) người ta phải thắp hương cúng thủy thần tại đó (lễ cúng gồm cháo, nổ và nhiều thứ khác). Khi Long Châu làm xong, Thầy phù thủy phải tiến hành hai lễ nữa: Lễ điểm nhãn Long Châu (vào giờ Dần) và lễ quay đầu Long Châu trước khi rước.
Như vậy, mọi việc đã chuẩn bị xong, lúc này làng phải tổ chức họp dân làng ẽ chuẩn bị cho buổi rước ngày mai. Làng Diêm Phố đất đai hẹp, nên khu vực đền thờ miếu mạo lại đặt tại khu đất làng mua lại của xã Đa Lộc (cách làng 2,5 cây số) vì vậy việc rước kiệu thần khá xa. Hơn nữa rước kiệu thần về làng là phải rước cả Long Châu đã tạo cho đoàn rước dài hơn cây số. Tổng số trai thanh, gái lịch được cắt cử vào việc khiêng 5 cỗ kiệu, Long Châu, 17 mũ thờ và bè mảng tưởng nhớ người bị nạn lên đến hơn 100 người. Ngoài ra còn 25 bản hội gồm các già làng, thiện nam, tín nữ đi theo phò hộ kiệu cùng với cán bộ nhân dân trong làng, xã và khách thập chung vv...Mọi công việc, phải rất cụ thể và được cắt cử đến từng người, từng đội Tất cả chuẩn bị cho ngày mở Lễ hội của làng vào ngày 22 tháng Hai (Âm lịch).
5. Phần lễ hội
5.1. Phần tế lễ:
5.1.1. Tổ chức tế lễ: Đúng 7 giờ sáng ngày 21/2 Âm lịch lễ mở cửa đền được bắt đầu. Ông từ giữ các đền: Đền Tứ vị Thánh Nương (còn gọi là đền Thánh Cả hoặc Nghè Diêm Phố), chùa Liên Hoa, đền thờ Thánh Mẫu, đền Đức vua Thông Thủy (ở Đảo Nẹ) và đền Ngư Ông (Cá Ông) đều lần lượt mở cửa đền. Sau các thủ tục thắp hương dâng lễ, các đội tế bắt đầu vào tế.
Làng Diêm Phố có 2 đội tế: đội tế nam có 15 người và đội tế nữ có 13 người. Ngoài ra, còn có một đội nhạc sênh tiền 12 người. Theo sự phân công của làng, đội tế nữ thường tế tại đền Thánh Mẫu, chùa Liên Hoa; còn đội tế nam thường tế tại đền Tứ vị Thánh Nương, đền Nẹ Sơn, đền Ngư Ông và tế chính trong ngày làng mở hội.
Tế tại đền Thánh Cả (Tứ vị Thánh Nương).
Đội tế gồm 15 người. Trước khi hành lễ cả đội tế vào vị trí. Chủ tế mặc áo nh, đội mũ bình thiên, chân đi hài, 2 phụ tế, 2 hầu tế, đông xướng, tây xướng đều mặc áo đỏ, đội mũ bình thiên, chân đi hia. Đội nhạc tấu điệu lưu thủy, thầy sênh tên múa sênh trước cửa đền. Nhạc dứt, đội tế bắt đầu hành lễ. Sau ba tuần dâng rung, dâng đọc chúc và hóa chúc văn, buổi lễ kết thúc. Cứ hết một tuần tế, đội bát âm lại tấu nhạc lưu thủy. Khi đội tế kết thúc lại có một lần múa sênh tiền.
Tế tại chùa Liên Hoa và đền Thánh Mẫu.
Chùa Liên Hoa thờ Phật và đền thờ Thánh Mẫu của làng Diêm Phố ở liền kề nhau. Hai nơi này có đội tế nữ của làng tế. Hình thức tế và nội dung chúc văn đều kể về công đức của các vị Thánh Mẫu và Đức Phật.
Chủ tế mặc áo đỏ, quần trắng, đội mũ màu rộng vành, đi hia. Những người Thí hậu tế đều mặc áo màu vàng; khi đội tế nữ hành lễ, đội nhạc bát âm cũng nấu nhạc và biểu diễn sênh tiền như ở đền Thánh Cả. Đội tế cũng thực hiện dâng Tui tuần, ở giữa mỗi tuần đều có tấu nhạc lưu thủy. Cách thức tế ở đền Thánh Mẫu và chùa Liên Hoa giống nhau và giống như đội tế nam. Sau khi hóa chúc văn, tuổi lễ kết thúc.
Tế tại đền Cá Ông.
Sau khi tế ở đền Thánh Cả, chùa Liên Hoa, đền Thánh Mẫu, cả hai đội tế tập trung tế tại đền Cá Ông (còn gọi là đền Ngư Ông).
Việc tế ở đền Cá Ông là nghi lễ quan trọng nhất trong lễ hội Cầu Ngư. Năm 1739 (thời Lê), một con cá voi trôi dạt vào bờ biển Diêm Phố. Dân làng đem 100 lá chiếu đắp lên xác cá voi. Sau đó đem cốt về lập phủ để thờ. Ngư dân làng Diêm Phố coi Cá Ông như thần hộ mệnh của mình khi lênh đênh trên biển cả và thả câu đem nhiều cá tôm cho mỗi bận quăng chài thả lưới.
Việc tế lễ ở đền Cá Ông được tổ chức khá long trọng, đội tế nam chủ trì buổi lễ, các thành viên trong làng xã, đội tế nữ, đội nhạc đều tập trung phục vụ cuộc tế.
Tế ở đền Nẹ Sơn (Đảo Nẹ).
Chiều ngày 21 tháng Hai (Âm lịch), làng Diêm Phố tổ chức tế ở đền Nẹ Sơn (Đào Nẹ) - nơi thờ Đức vua Thông Thủy. Đảo Nẹ cách đất liền 5km, là hòn đảo án ngữ mặt tiền của làng Diêm Phó với biển khơi. Đảo Nẹ đã trở thành một vùng rộng lốm để ngư dân làng này đánh bắt tôm cá gần bờ và cũng là chỗ dựa để thuyền bè đinh cá ngoài khơi. Chính vì vậy, việc tế lễ tại đền Đức vua Thông Thủy ở đảo Nẹ Sm đã trở thành lễ trọng. Ngày lễ hội có 450 chiếc tàu thuyền đánh cá đã trở về hàng neo đậu kín cả vùng lộng trước làng. Mỗi chiếc thuyền có cắm một chiếc cờ hội tạo cho vùng nước một màu đỏ rực. Đội thuyền tế ngoài Đảo Nẹ gồm có 7 chế chở đầy người. Trên thuyền có đội tế, cờ trống, lễ vật và ngư dân đi tế. Ai cũng muốn ra tận đền Nẹ Sơn để cầu mong Đức vua Thông Thủy ban phát ơn trạch cho họ trong những ngày ra khơi về lộng. Đội tế thực hiện các nghi thức tế lễ giống như ở đền Thánh Cả.
5.1.2. Rước kiệu.
Từ 4 giờ sáng ngày 22 tháng Hai (Âm lịch), theo sự phân công của ban tế lễ, các đội tế, phường bát âm, phường khiêng kiệu, các bản hội, hội đồng kỳ mục, các chắc trong làng, trưởng các dòng họ đã có mặt tại đền Thánh Cả để làm thủ tục rước kiệu. Đoạn đường từ đền Thánh Cả đến bãi “đất Phúc” (nay là Trung tâm văn hóa xã) dài khoảng 2.500m nên đoàn rước được tổ chức khởi kiệu từ rất sớm.
Dẫn đầu đám rước là đội cờ trống, sau đó là các mâm lễ của các Phật tử (mỗi mâm lễ có hai phụ nữ khiêng), tiếp đến là phường bát âm, đội chấp kích mặc 4 màu đỏ, quần xanh, đi sau là hai thanh niên cầm hai thanh long đao đi hai bên, mặc quần xanh, chân quấn xà cạp, áo vàng, đầu chít khăn đỏ; tiếp theo là hai phụ nữ mặc áo dài trắng và hồng, quần màu đen, đầu đội khăn xếp cầm hai lọng màu vàng.
Kiệu đi đầu là kiệu Đức vua Thông Thủy, do bốn thanh niên nam khiêng mặc áo đỏ viền vàng, quần màu xanh, chân quấn xà cạp, lưng thắt đai xanh, đầu chít khăn đỏ. Tiếp đến là kiệu Phật, đội khiêng kiệu gồm 8 phụ nữ mặc quần trắng, áo đỏ, lưng thắt đai xanh, đầu chít khăn đỏ. Đi sau kiệu Phật là kiệu Thánh Mẫu; kiệu do 8 phụ nữ trung niên khiêng, mặc áo màu vàng, quần đỏ, lưng thắt đai đỏ, đầu chít khăn vàng. Tiếp theo sau là kiệu Tứ vị Thánh Nương do 8 phụ nữ khiêng, trang phục của những người khiêng kiệu này mặc áo xanh, quần đỏ thắt đai xanh, đầu chít khăn đỏ. Kiệu Ngư Ông đi sau cùng, đi song song hai bên kiệu của Đức Ngư Ông là hai người bị hai mũ hình tàu bè được thờ trên đền Ngư Ông; kiệu này do 6 thanh niên khiêng, mặc áo đỏ, viền vàng, quần màu xanh nhạt, chân quấn xà cạp, lưng thắt đai xanh, đầu chít khăn đỏ.
Đi trước mỗi kiệu là một ông già hầu hiệu, trang phục giống như bồi tế, có nhiệm vụ kèm kiệu (tức hầu hiệu), hai bên của đoàn rước kiệu là bà con phật tử âm hương bái vọng.
Khi đoàn rước kiệu về đến gần bãi Đất Phúc của làng (xóm Bắc Thọ) thì đoàn nước lại được bố trí như sau:
Đi trước là hội Phật tử và cờ Phật; tiếp đến là đội múa lân (tập hợp ở vị trí Long Châu từ trước); sau đó là đội trống, đội chiêng, đội rước cờ hội, phường bát âm (vừa đi vừa biểu diễn những bản nhạc lưu thủy); theo sau là tượng hai ông hộ pháp đặt trên chiếc xe có bánh do hai người đẩy đi, sau là tượng hai nàng hầu, đi trước là hai vị pháp sư. Tiếp đó là đoàn rước kiệu (theo trình tự sắp xếp như cũ). Tiếp đến là đội rước mũ, gồm 17 mũ tam tôn nhà Phật; 3 mũ Ngọc Hoàng, Nam Tàu, Bắc Đẩu; 3 mũ của Hội đồng Tiên Thánh; Ở giữa là Tiên Thánh, hai bên là Tả Tăng niên và Hữu Tăng Cảnh; tiếp đến là 5 mũ của Tổng ôn, 4 mũ chỉ 4 phương Đông - Tây – Nam – Bắc; cuối cùng là 3 mũ của Bát Hải. Tổng cộng có 17 mũ, 17 người mới. Những người tham gia nước mũ và bê 5 bát hương là những cụ cao niên, có đức độ, mẫu mực, được làng xóm tôn trọng.
Tâm điểm là lễ rước Long Châu. Đi trước Long Châu có hai tượng hộ pháp được đẩy trên xe có bánh, tiếp đến là đội quân biển cả. Long Châu có khối lượng hoảng hơn 2 tấn, trên Long Châu được gắn 15 pho tượng (như đã mô tả ở trên). Thuyền rồng uy nghi được hơn 40 thanh niên trai tráng khiêng đi giữa sự hộ giá của quan lính, các quan khách và nhân dân. Long Châu không những là vật thiêng tế trời mà còn là một công trình nghệ thuật tạo hình đặc sắc mang đậm dấu ấn tâm linh của người dân vùng biển Ngư Lộc.
Đi cuối cùng của đoàn rước là các vị chức sắc trong xã, thôn, các cụ cao niên, các bản hội và quần chúng nhân dân trong làng. Đoàn rước kéo dài hơn 2 cây số. Đi đến đâu đoàn rước cũng được dân chúng hai bên đường lập hương án bái lạy. Khi đoàn rước về đến gần lễ đài, đội trống rước gồm 21 trống lớn nổi lên theo điệu rước đồn đập. Đúng 7 giờ 30 phút ngày 22 - 2 Âm lịch đoàn rước về đến đài lễ; liệu và Long Châu được đặt vào vị trí đã định.
5.1.3. Đàn lễ và tế lễ.
Đàn lễ: là nơi để tổ chức lễ hội Cầu Ngư hàng năm của làng Diêm Phố được đặt tại bãi “đất phúc” của làng (nay là vị trí sân vận động Trung tâm của xã), mặt đàn quay ra biển. Đàn lễ được đóng thành rạp theo cấu trúc giống như một ngôi đình làng. Phía trước mặt như nhà Tiền đường của ngôi đình là nơi đặt 04 cỗ Địa 7 mũ tam tôn, bàn thờ, bài vị các vị thần. Hai bên giống như hai dải vũ. Dải bên phải đặt Long Châu, dải vũ bên trái là nơi chức sắc trong làng xã ngồi dự lễ. Ở giữa là khoảng sân rộng để tế và múa lân. Trên cổng ra vào đàn lễ treo biển đề hội Cầu Ngư và những dãy cơ hội đỏ rực cả một vùng.
Sau khi ổn định, vị chủ tế vào làm lễ yên vị; tiếp đến Ban tổ chức làm lễ khai mạc; đại biểu dâng hương, đội múa lân vẫn tiếp tục biểu diễn.
Khi đặt đàn lễ xong, thầy cúng vào khai khuông, tẩy uế và làm lễ yên vị. Trên tay thần cầm một cái gương, một cành đào và một chén nước, nước và cành đào là làm phép để khai khuộng, sát đàn; gương với ý nghĩa chiếu diện âm dương minh nguyệt.
Bước vào đàn lễ đánh 3 hồi chuông, 3 hồi trống, khi đánh xong bắt đầu khóa cúm thần linh. Cụ thể khóa yên vị cũng như sau:
“Phục dĩ âm dương chiếu diệu nhật nguyệt, chiếu quang minh.
Khai khuông trì tậu kim tinh phủ chiếu bản viên minh duy ảnh dong nhan sắc tối linh.
Không tư manh mục chiếu hông huê. Bích mông san sát chiếu trần xa, án tá môió xa bà ha xa ha. Tam đồ bát nạn tức cổ đình chuông, pháp giới chúng sinh khai kinh mộ đạo. Chuông thanh phiền não, khánh cứ tuệ tràng. Bồ đề sinh lý địa mac, xuất bái niệm thành phật. Tám tướng kim cương đứng sắp bày, mười phương cầu phật đã thông thay, tà ma ngoại đạo vô can phạm. Long thần thổ địa về hộ đồng dân, đồng xã khách thập phương.
Cây dương chi, lá cũng dương chi, thầy đưa về sái nghi đàn trường. Nhất sái thiên, thiên linh ứng, nhị sát địa địa linh thông, tam sát nhân sinh đồng dân đồng xã thọ trường sinh, tứ sái quỷ quỷ duyệt hình, ngục sái đàn trường tất thanh tịnh.
Phụng thỉnh như lai chiếu điểm khai là khai phật nhãn, khai phật nhãn là Tổng quang minh. Ngọc hào quang xá hạ, khai thánh nhân phóng quang minh. Nợ hào quang chiếu diệu xá hạ, phụng thỉnh như lai chiếu điểm khai là khai thần mìn phụng thỉnh như lai chiếu điểm khai là khai pháp nhãn, khai pháp nhãn là phóng quang minh, ngọc hào quang chiếu diệu xá hạ phụng thỉnh phụng thỉnh như lai chiếu điểm khai là khai tuệ nhãn là phóng quang minh ngọc hào quang chiếu diệu xá hạ. Phụng thỉnh như lai chiếu điểm khai là khai nhục nhãn, khai nhục nhãn ngóng quang minh, ngọc hào quang chiếu diệu xá hạ.
Tiếp theo, ban khánh tiết giới thiệu các vị chức sắc trong làng, xã tham dự buổi lễ, sau đến ông Lý trường đại diện cho làng tuyên bố buổi lễ bắt đầu và khai Trong lễ hội, sau là biểu diễn trống hội, tiếp đến đội bát âm biểu diễn nhạc lưu thủy, đồng thời các vị chức sắc làm lễ dâng hương cúng thần linh.
Từ 14h - 15h ngày 21 tháng Hai làm lễ tế cầu mát, cầu an;
Từ 15h - 23h cùng ngày, các dòng họ, nhân dân và khách thập phương dâng Trung cúng lễ và chiêm bái;
Hết một ngày, chuẩn bị sang canh ngày hôm sau, làm lễ tế sang canh (lễ tế sang anh có ông thầy cúng, ông lý trưởng xã và vợ chồng của gia đình nhà trọ);
Từ 7h - 23h ngày 22 tháng Hai, các dòng họ và du khách thập phương tiếp nụ cưng hương, cúng lễ.
Sáng ngày 23 tháng 2, từ 7h30 - 9h, tổ chức rước cỗ từ Nhà trọ về đàn lễ. Trên đường lễ rước cỗ, đánh trống rước và biểu diễn nhạc lưu thủy. Cả ngày hôm đó, tại lễ đàn, các dòng họ, nhân dân và du khách thập phương tiếp tục dâng hương cúng lễ.
Cung tiễn Long Châu: Sáng ngày 24 tháng Hai sau cuộc đại tế của dân làng xong, chiều ngày hôm đó thầy vào khóa cúng tiễn Long Châu;
Trước tiên thầy cúng ngồi vào đàn lễ đọc tâu sớ:
"Tinh huy ngân hán, hoàng hoàng nan trắc nan danh, nhân sử dương gian lục lực hấu nhương hẩu đảo. Kim cứ. Việt Nam quốc, Thanh Hoá Tỉnh, Hậu Lộc huyện, Ngư Lộc xã, Diêm phố làng. Cư phụng cầu ngư, giải chư vận hạn, tập phúc nghênh tường, chiêu kỳ tài lộc, sự kim tín chủ đại diện chủ tịch xã Ngư Lộc:
Tấu lạy, nam vô thập phương thường trụ tam bảo bát vị thánh hiền, kim liên ngọc bệ hạ;
Tấu lạy, hiệu thiện chí tôn Ngọc hoàng thượng đế, ngọc bệ hạ,
Tấu lạy, Đại càn quốc gia Nam hải Tứ vị Thánh Nương hộ quốc cứu dân, ngọc bệ hạ,
Tấu lạy, Trần triều hiển thánh Hưng Đạo Đại Vương, ngọc bệ hạ. Tấu lạy đức thánh Sầm Sơn Độc Cước Chu Văn Minh, ngọc bệ hạ;
Tấu lạy, Hiền thiên đại thánh, đô thiên đại thánh, Ngộ không thần tướng, mang bệ hạ;
Tấu lạy, Đương niên chí đức tôn thần;
Tấu lạy, Đức vua Phù tang cam lâm đại đế;
Tấu lạy, Thiên Bồng nguyên soái đại tướng quân hung nô bò sơn tôn thần vị tiền;
Tấu lạy. thiên phủ, địa phủ, thuỷ phủ;
Tấu lạy, Hà bá thuỷ quan Long Vương chúa tể, Giác Hải thiền sư vị tiền;
Tấu lạy, các tổng lái, tổng mũi hàng tàu;
Các dòng họ ở làng Diêm Phố tấu đàn chứng minh;
Phục duy thượng hưởng
Sau khi tậu sớ xong, thầy vào khóa cúng Thiết tướng", thầy cúng tay cầm tấm chống hông múa qua múa lại tại đàn lễ và đọc lệnh.
Sơn Tiêu ơi, Độc Cước ơi. Cha xưa kiếp trước làm thầy Pháp môn. Tên là Phác Xuyên, kim chi ngũ phủ tướng lên 10 tuổi ấn quyết làm lòng lục trí thần Tủ phân minh báo ứng hồi chuông dong trống. Tích cũ tam thông Ngọc Hoàng sắc sai ba họ ra đi đến nhà Nguyễn Ốc. Nhà thì vắng hết, còn một nóc nhà, xẻ lấy că về tâu thiên đình, cha mẹ về nhà thấy chàng kinh sợ, lập làm phần mộ chính giữa gia trung, bách nhật uy hùng hiện lên một tướng, dáng roi dáng kiếm hoả tốc lênh truyền chỉ huy tốc dáng. Sai tiếp tân gia tướng ấy là thầy thác sang Nam Việt hiệu dầy là Danh, hiệu tướng là Văn Minh, một mắt một mũi, một chân tả rầy, uy linh tướng cả siêng thay lập nghiệp giờ Dần. Việt Nam sơn thuỷ hữu tình, cây xanh đất tốt cảnh xanh đời đời. Quảng Xương huyện là nơi giáng sinh, Lương Niệm khí thời Liên thôn, dấu chân một bước hãy còn, đột đôi trái núi giữa lòng thôn Diên.
Thần Phù dẫu một bàn chân, tiếng ồn đã khắp xa gần Việt Nam. Minh sư học được phép làm hình phù đã ngục, bệnh tan tức thì. Ba trăm tay ấn có dư, một trăm đạo bùa phật tổ giao cho. Tướng hộ Tôi dáng roi, dáng kiếm, tướng hộ tôi dáng kiếm, dáng cờ. Mũi gương Tôi chỉ Đông phương, Sơn quân chi quỷ kíp mau xuống tàu”.
Cung Thiên bình vạn mã: Sau khi nhận được lệnh của Tướng, thầy cúng chuyển sang khóa cúng Thiên binh vạn mã (gọi tướng quân xuống tàu), tay cầm 3 nén hương, tay chống hông làm lệnh.
Thầy đọc lệnh trên đàn lễ:
“Thiên thiên lực sĩ, vạn vạn tinh binh, binh tuỳ binh bộ, binh bộ binh vệ, Thinh 18 nước. Ông vệ, ông Trương, Ông Đô, Ông Triều, Ông Lộc, Ông Khang, về văn, triều vũ, các tướng âm binh. Sắc lệnh sai hội đồng chủ tướng tuỳ phù đô tốc đáo bản gia, trống chiêng sinh đạo nhập ba chữ binh chư tướng bước ra đánh đồng. Phép thần thông làm cho giọng mạch để cho thấy được cậy, được trông. Ức niên hương hỏa trường tồn, mời quan thổ địa đóng đồn trong quân, đồn tiền bát vạn quâm thần, đồn hậu đại đế, đồn thì trung lâm. Thầy thỉnh bạch xà nguy nghi, ngũ hổ đại tướng cần thôi, đừng ăn hối lộ của người tà gian. Thỉnh tướng quan công đồng nghĩa sĩ, tả thiên lực sĩ, hữu vạn vạn tinh binh, hộ thần đệ tử tốc dáng bản đàn, hộ dân hộ xã cùng khách thập phương, vạn sự như ý”.
Thầy cúng bước đến Long Châu tay cầm 3 nén hương viết vào không gian, mi rồng dạc gọi quan, quân tướng xuống tàu:
“Thượng thiên thừa mệnh,
Lệnh xuất đi Nam Hải
Hỡi hỡi các quan
Nghe lệnh loa truyền
Trên dưới lắng nghe
Thiết quan luật
Hai hàng văn võ
Cờ súng nghiêm minh phát lệnh thi hành
Trước sau nghiêm chỉnh
Lệnh như sơn
Quan tổng lái cầm quân y lệnh
Quan tổng mũi loa vang truyền chỉ
Lệnh bài binh bất khả thiên uyên
Ai trái lệnh chém đầu quân pháp.
Trống đánh cờ mở
Súng phát hoả mai
Hỡi hỡi các quan ta
Đường cao thể lực.
Buồm mở ra
Neo sắt kéo lên
Đội quan giám sát quan nghiêm nghặt
Đồng tâm hiệp lực
Mau tiến về Nam
Quân khí quân lương
Kiểm cho đầy đủ
Giờ đã điểm
Lệnh trên ban xuống
Ơn đức vua, Phật thánh độ trì
Dòng nước bạc không ngày gặp lại
Nén hương thơm phảng phất u minh
Đừng luyến tiếc vị hành quan pháp
Để muôn dân làm ăn thịnh đạt
Cất khánh, thái bình, hạnh phúc vô Biên
Lệnh Truyền y chỉ”.
Sau khi gọi quân xuống thuyền, thầy cúng dùng 3 nén hương có lửa viết mà không gian rồi đọc lệnh quay mũi thuyền, khởi hành;
Thượng thiên thừa mệnh, truyền lệnh:
“Hỡi hỡi các quan
Trên dưới lắng nghe
Ta văn hữu võ
Cờ súng nghiêm minh
Phát lệnh thi hành
Dưới trên nghiêm chỉnh
Trống giong cờ phất
Súng phát hoả mai
Quan cai, quân đội
Vũ khí quân lương
Đốc công đầu bếp
Ba quân sắp sẵn
Chờ lệnh xuất hành
Điểm số điểm danh
Quân khí quân lương
Phải cho đầy đủ Khẩn tốc thi hành
Chiếu theo quân pháp
Ai trái lệnh
Chém đầu làm lệnh
Giờ trống rồng đã điểm
Chuông reo vang đã thấu về thiên
Y lệnh chỉ
Xuất đi Nam Hải
- Tiền Xuất
Qua cửa vua cha Bát Hải
Xuất lệnh trình phải tới
Bò sơn Qua của Đức ông Thiên Bồng nguyên soái
Xin lệnh xuất về cửa đền
Tứ vị Thánh nương
Tiếp sức tiếp lương
Tuân thủ hành trình nước rút
Thuận buồm xuôi gió
Đua tranh mái chèo
Thời tiết trong lành
Tới cửa cố đô
Thành trì là Huế
Các bậc triều thần
Ơn vua ban tước
Hết hạn mãn tuần
Tấu trình quân lệnh
Hành trình tới điểm
Thập nhị hải môn
Khắp hết cửa ải
Mau trở về đây
Thần nào đền ấy
Diệt trừ yêu quái
Trừ quỷ trừ hung
Hộ quốc cứu dân
Nhân khang vật thịnh
Hạnh phúc vô cương
Trường tồn trường thọ
Tài lộc danh dự
Ngư hà mẳn tải
Hải sản phong doanh
Thượng mệnh hanh thông
Tán tại bát nạn
Xử vô xâm phạm
Chi xử bách phúc
Thiên tướng thượng hưởng
Hữu thỉnh hữu lai
Vô thinh bất đáo
Toạ hạ quy y
Cấp phong chiếu lệnh - Ý chỉ
Tuế....thứ... nguyệt... nhật...”
- Cùng chúng sinh: Sau khi Long Châu đã quay mũi thuyền, Thầy cúng vào khóa cúng chúng sinh:
“Ngã kim tuân phụng
Chư Phật thế tôn.
Bố thí cô hồn.
Giao mời khắp càn khôn thiên hạ.
Đầu đường cuối xá.
Trên chợ dưới sông.
Nam Bắc Tây Đông, rừng xanh biển thẳm.
Xa gần muôn dặm.
Thu lại một giây nhờ đức phật nay thần thông biến hoá.
Nam nữ trẻ già, khắp hết đâu đâu về chốn đàn nghi thí thực trước nghe pháp thúy ba hồi.
Dâng hương một chuyện ở nơi đàn trường.
Chiếu hoa trải khắp bày hàng.
Áo đỏ ngũ sắc bạc vàng chứa chan.
Trước thỉnh đức Phật A Nan, sau diện đại sĩ đáo đàn chứng minh.
Lại mời lục đọa tứ sinh, tam đồ bát mãn quỷ tinh mọi loài, dương gian cân Ta mọi nơi, sơn lâm thuỷ phủ trước rời kiếp sau.
Cây cao bóng mát quán cầu, nghe lời thầy thỉnh đâu đâu thời về.
Trí tâm hàm ước nên công, thương thay mưu trí anh hùng bí danh.
Nội đạo lực chiến quyền bình đùng đùng hùng tặc hồn kinh rụng rời.
Các loài là những loài nghe, lời thầy đã thỉnh thời vào nghe kinh.
Ai đến đó gái trai ngồi lại, lễ gọi là hương cháo truyện hương, gọi là manh áo nữ sinh trợ cho làm của ăn đường đi về gốc lai.
Thượng hưởng”.
- Đọc Hịch Bảo ôn: Khóa cùng chúng sinh đã xong thầy bước đến mũi Long Crim một tay cầm long đao sáng một tay cầm ngọn đuốc giơ cao và đọc Hịch Bảo Ôn.
“Thầy nay vâng lệnh thượng đế sắc thiên tào.
Bước tới trước đàn có lệnh giao
Trừ ôn tinh chúng quỷ tà ma quỷ mị.
Hỡi hỡi các quan
Âm dương sau trước
Giao ước xong rồi
Trên thiên định có lệnh cần thôi
Dưới hạ giới các quan thu quân về đàn nghiêm nhặt
Các quan hãy đồng tâm hiệp lực
Cho bộ binh dọn dẹp xuống thuyền
Lệnh bài binh bất khả thiên uyên
Hiệu lệnh tinh nghiệm thiếu ai trị tội
Nào các bộ, các vệ, các cơ
Nghe lệnh mở cờ, chiêu quân lừng lẫy
Đông phương đội ấy mở những cờ xanh
Nam phương tinh binh mở toàn cờ đỏ
Tây phương đội ngũ cờ trắng phau phau
Bắc phương kéo sau cờ đen san sát
Trung ương xàn xạt kéo những cờ vàng
Trống dóng hai hàng, chuông hồi ba lúc
Sinh ngộ nhục phách, kêu gọi ống loa
Hỡi các quân ta mộc mang gươm cắp
Trống rung cờ phất, súng phát hoả mai
Gươm tuốt trần, giáo cắp hai hàng
Cầm loa bạc, dương cung tay nỏ
Không được xốn xáo, lỗi đạo với bề trên
Chèo ra lái, neo sắt kéo lên
Ai ẩn lại chém đầu làm lệnh
Đàn trường đã chỉnh cấp cho các quan
Trịnh tu gián đàn tông vu thuỷ ngoạn
Còn ai sót lại, thầy phát tấu thiên đình trị tội.
Các xuống thiên thứ vạn vạn tuế.
Y lệnh”.
5h chiều ngày 24 tháng 2, khi pháp sư hành lễ xong, lễ hội chuyển sang phần mê và hóa Long châu. Long Châu với lễ vật đầy thuyền được đoàn người nước ra biển để hóa. Sau khi Long Châu được hóa, các đoàn khiêng kiệu trở về nghề Diêm phố hàm lễ nhập kiệu và kết thúc tế lễ.
Lễ tiễn thuyền: cuối cùng là Lễ tiễn thuyền, 25 cỗ mũ ngũ sắc được đưa hết lên Long Châu, tượng hai ông hộ pháp và hai nàng hầu cũng đưa đi cùng thuyền. Thầy pháp sư cầm ngọn đuốc, bên hông đeo thanh kiếm đọc văn tế. Bốn mươi Tranh niên trai tráng khiêng thuyền ra vị trí đã được sắp xếp ngoài bờ biển và làm đốc thuyền.
5.2. Phần hội:
Bên trái đàn lễ là một mảnh đất rộng dành cho việc tổ chức các sinh hoạt trò chiến dân gian như thị tróc quại, thi câu mực, thi đan lưới, đánh cờ tướng, kéo co, anh tùm, hò đối, v.v...
Lễ hội Cầu Ngư của làng Diêm Phố có ảnh hưởng đến cả một vùng rộng lớn, nhất là cư dân các làng làm ngư nghiệp ven biển các huyện Hậu Lộc, Nga Sơn, Hoằng Hóa, Quảng Xương, Tĩnh Gia, thị xã Sầm Sơn. Trong những ngày diễn ra lễ hội, hơn 450 tàu đánh cá của làng Diêm Phố đều trở về bãi biển của làng. Chính vì Thế trong tất cả các ngày lễ hội, ban tổ chức đều dành thời gian cho các gia đình đến cũng ế cầu may, cầu mát. Ngoài ra các thôn, các dòng họ, các bản hội trong và ngài làng Diêm Phố cũng đến cúng tế, việc này đã thành lệ từ rất lâu đời.
Trong các ngày 21 đến 24 tháng Hai, đồng thời với việc tổ chức lễ tế, phần hơi cùng diễn ra với nhiều trò diễn dân gian như trò câu mực, thi đan lưới, thi hò đối, đánh cờ người và nhiều hoạt động sinh hoạt văn hóa dân gian khác.
5.2.1. Trò câu mực:
Trò câu mực vốn là nghề truyền thống của nhân dân xã Ngư Lộc được diễn ra từ trước cách mạng tháng Tám 1945, việc đưa Trò câu mực vào trong hội làng được xem là rất phù hợp, bởi trò này không những yêu cầu có kinh nghiệm mà còn đòi hỏi sự khéo léo của người chơi. Trước khi vào lễ, ban tổ chức cho cắt những mô hình cá mực bằng xốp (trước kia làm bằng gỗ nhẹ), thả vào những cái chậu đựng nước. Người chơi phải dùng những cần câu có lưỡi câu chùm. Người chơi phải quăng cần thật chính xác để làm sao mà câu được càng nhiều mực; ai câu được nhiều mực sẽ là người thắng cuộc. Đây không chỉ là sinh hoạt vui chơi mà còn là nơi để trao đổi kinh nghiệm và giao lưu giữa những người trong nghề ngư nghiệp.
5.2.2 Trò Đánh Tùm:
Trò Đánh Tùm được tổ chức ở những nơi có đất bằng phẳng, người ta khoét hai lỗ tròn có đường kính 20cm, lỗ này cách lỗ kia 25cm. Trước đó họ đã mài những viên tròn bằng gạch hoặc đá có đường kính 15cm. Người tham gia không phân biệt trai gái, già trẻ. Người chơi tùm đứng từ lỗ bên này ném viên tròn vào lỗ bên kia, nếu viên tròn nằm lọt dưới lỗ là thắng. Người thắng cuộc sẽ được trao giải thưởng.
5.2.3. Hát hò đối hay còn gọi là hát ghẹo: Đây là hình thức sinh hoạt văn hóa hấp dẫn, nhất là đối với nam nữ thanh niên. Hát ghẹo thường diễn ra lẻ tẻ, ví như vài ba cô gái ngồi chắp gai xe sợi trông thấy người con trai lạ đi ngoài đường, các cô thường hỏi người ấy bằng câu hát. Đã hỏi thì phải trả lời, thế là lập tức biến thành một cuộc hát ghẹo, hát cho đến khi cạn lời hết ý mới thôi. Nhưng đó là những Trường hợp bất chợt, ngẫu hứng nên hát hoặc thôi hát rất tự do, không lệ thuộc vào quy định nào, chỉ hát cho vui.
Nhưng hát ghẹo trong Lễ hội Cầu Ngư thì phải là hát cuộc, tức là bắt buộc Thi tuân theo trình tự, một cuộc hát nhất thiết phải trải qua 3 chặng 9 lời, mỗi chung gồm 3 lời.
Chặng một, là chặng mở đầu bằng lời chào mừng thăm hỏi đã thành nếp, Sau đó dần dần đi vào chuyện tâm tình riêng tư, chàng này gồm 3 lời:
Hát dạo (là hát những lời ướm thử, có lúc như bâng quơ).
Nữ:
Bữa ni biển lặng đêm thanh,
Lòng vàng muốn mở vài canh chuyện trò.
Ai người đáng bậc tài hoa,
Chuông vàng gióng tiếng cho ta cất lời.
Nam:
Đêm nay gặp buổi êm trời,
Nhưng còn lạ cảnh là người lắm thay.
Lần đầu anh được đến đây,
Anh em cách trở mẹ thấy xa xôi.
Nữ:
Tưởng đôi chim nhạn bay về,
Ai ơi sao lại cam bề lẻ loi?
Hát mừng: hát những lời mừng đến làng xóm, họ hàng của nhau.
Nam:
Tới đây viếng cảnh thăm hoa,
Trước mừng các cố sau là mừng dân.
Sau nữa mừng cả trai tuần,
Mừng cho nam nữ chơi xuân hội này.
Một mai đàn có bén dây,
Ơn dân vạn bội biết ngày nào quên.
Nữ:
Đêm khuya giấc ngủ mơ màng,
Chim mô đến đậu cành vàng gáy chơi.
Hát thăm (thăm ở đây có nghĩa là thăm dò đối phương về gia đình, hạnh phúc, nghề nghiệp...)
Nam:
Chèo thuyền ra biển ngóng trông,
Gió đưa sóng lượn mà không thấy nàng.
Nữ:
Chiếc thuyền be bé xinh xinh,
Không vô bờ mà đậu sao cứ dập dềnh ngoài khơi.
Nam:
Bấy lâu cách mận trở đào,
Buồm nâu cá bạc ước ao duyên nào.
Nữ:
Thuyền son đậu phải vũng đầm,
Tai trâu mà gẩy đàn cầm buồn thay.
Một mình chẳng dám đi xa,
Áo mẹ mặc đỡ cơm cha ăn nhờ.
Rồi thăm dò đến quê quán, anh em họ hàng, nghề nghiệp.
- Chặng hai, gồm hát đối, hát đố, hát xe kết.
Hát đối:
Nữ:
Anh ơi bốn bể đãi đằng,
Anh còn tưởng gió trông trăng nỗi gì?
Nam:
Thương sao thương lắm thế này,
Thương đêm không ngủ thương ngày không ăn.
Nữ:
Anh như chỉ gấm thêu cờ,
Em như rau má nằm kề giếng khơi.
Thà lăn xuống giếng cho rồi,
Còn hơn cách biệt mỗi người một nơi.
Hát đố (Hát đố cũng nhằm thử tài, nhưng nghiêng về thăm dò kiến thức của nhau):
Nam:
Mình tròn lưng lại cong cong,
Dây tơ vấn vít con ong nửa vời.
Chơi thì tìm chốn mà chơi,
Bắt con long thổ ghẹo người thủy cung.
Nữ:
Cả ngày xe sợi chắp gai,
Em không biển cả sông dài xa xôi.
Anh về uốn lưỡi tìm mồi,
Kéo cước cho thằng câu đối cá vàng.
Cái cần câu đúng không chàng?
Và tiếp theo bằng độ Kiều, núi sông, vật dụng, các loài hoa...như hát ghẹo ở nhiều nơi khác.
Hát xe kết (hát xe kết vào lúc tình cảm hai bên đã có sự gắn kết, họ đã thực sự yêu nhau):
Nữ:
Có lòng xin giã ơn lòng,
Xa xôi cách lế đèo bòng nên chăng?
E khi thắm nhạt vàng phai,
Sắc tàn nhụy úa, anh bỏ hoài thân em.
Nam:
Anh thề có bóng trăng đây,
Núi trường có lở, lòng này vẫn nguyên.
Gió đưa thuyền bảy xa vời,
Gió với trọng là bạn, nước với trời mênh mang.
- Chặng ba, gồm 3 lời là hát thể, hát dặn và hát tiễn:
Hát thề:
Nam:
Câu thề đã khắc một lời,
Anh ra khơi vào lộng để em ngồi chắp gai.
Nữ:
Đá vàng đây giữ một màu,
Lòng son xin đỏ lầu bầu chó phai.
Ra đi anh có câu thề,
Hòn Nẹ có đổ anh cũng về với em.
Hát dặn (là hát những lời dặn dò nhau giữ gìn lòng chung thủy như đã hẹn hò):
Nam:
Dặn em khóa ngọc then vàng,
Vì em anh phải đa mang đợi chờ.
Nữ:
Em là con gái xóm Bè,
Khéo đánh hạt dợ, khéo đè con quay.
Đã mừng phận đẹp duyên may,
Lấy chồng làng Gõ em nay đợi chờ.
Nam:
Được như lời nói anh mừng,
Đã như lời nói xin đừng nghe ai.
Được như lời nói không sai,
Tháng Giêng đến giỗ, tháng Hai làm nhà.
Tháng Ba ăn cưới đôi ta,
Đẹp duyên đẹp số mẹ cha vui lòng.
Nữ:
Anh về mua gỗ đóng giường,
Mua tre làm vạc, mua luồng làm song.
Mua thêm đối chiếu cỗ mùng,
Rồi ra em vợ anh chồng mới nên.
Hát tiễn (hát lời tiễn biệt chia tay nhau):
Nữ:
Anh về em những âu sầu,
Còn như thả lưới bể sâu khôn dò.
Nam:
Bởi lòng đã trót đa mang,
Ngõ Nghe nhìn xuống thênh thang Lạch Trường.
Ra về lòng những vấn vương.
Nữ:
Tay nâng chén rượu kề môi,
Tay gạt nước mắt anh ơi đừng về.
Xin anh giữ lấy lời thề,
Rồi mai ta lại ngồi kề bên nhau.
Nam:
Em tiễn anh đến tận bến sông,
Con đò cặp bến, anh không muốn về.
5.2.4. Hát ghẹo theo lối tự do
- Hỏi quê quán, tên tuổi:
Nữ:
Quê quán anh ở nơi đâu,
Mà anh thả lưới giăng câu chốn này?
Nam:
Thanh Hóa là đất phù sa,
Hậu Lộc chính thức huyện nhà của anh.
Quê anh chính thực dân ngư,
Nhân ngày lễ hội anh thì gặp em.
Nữ:
Quê anh em đã biết rồi,
Còn tên anh nữa đồng thời nói luôn.
Nam:
Quê anh em đã biết rồi,
Còn tên anh nữa anh là Chí Linh.
Nữ:
Tên anh em đã biết rồi,
Còn tên thầy mẹ anh thời tên chi?
Nam:
Cha anh là Nẹ mẹ anh là Tàng,
Không tin em hỏi dân làng đúng không!
Nữ:
Nhà anh mấy ngõ ra vào,
Mấy ao thả cá mấy cây đào chơi xuân?
Nam:
Nhà anh một ngõ ra vào,
Một ao thả cá hai cây đào chơi xuân.
Nữ:
Nhà anh tất cả mấy gian,
Mấy gian sinh hoạt mấy gian hợp phòng?
Nam:
Nhà anh chỉ có ba gian,
Hai gian sinh hoạt một gian hợp buồng.
Nữ:
Nhà anh tất cả mấy người,
Mấy người đi lính mấy người làm công?
Mấy người Đô đốc Quận công,
Mấy người chị gái mấy người em dâu?
Nam:
Nhà anh tất cả mười người,
Hai người đi lính hai người làm công.
Hai người Đô đốc Quận công,
Hai người chị gái, hai người em dâu.
Nữ:
Anh về hỏi thực mẹ thầy,
Có cho anh lấy gái này hay không?
Nam:
Anh về cũng hỏi mẹ thầy,
Mẹ thầy cũng nói một lời như anh.
Nữ:
Anh về hỏi với mẹ cha,
Có cho anh lấy vợ xa hay gần?
Nam:
Khi đi mẹ đã dặn rồi,
Đi thời đi một về thời về đôi.
Nữ:
Cũng như lời nói em mừng,
Cũng như lời nói anh đừng xa em.
Nam:
Em ơi, nói lời phải giữ lấy lời,
Đừng như ong bướm đậu rồi bay đi.
- Làn thương:
Nam:
Một thương anh gửi miếng trầu,
Hai thương anh gửi áo nâu quạt ngà.
Nữ:
Ba thương em gửi chùm hoa,
Bốn thương em gửi ngôi nhà năm gian.
Nam:
Năm thương em gửi chậu loan,
Sáu thương anh gửi một gian giường mùng.
Nữ:
Bảy thương em gửi chùm sung,
Tám thương em gửi một thùng rượu sen.
Nam:
Chín thương anh gửi cái đèn,
Mười thương anh quyết làm quen cô mình.
- Làn yêu:
Nam:
Một yêu tóc bỏ đuôi gà,
Hai yêu ăn nói mặn mà có duyên.
Nữ:
Ba yêu má núng đồng tiền,
Bốn yêu người ấy có duyên chăng là.
Nam:
Năm yêu mặt nguyệt rỗ hoa,
Sáu yêu người ấy cho ta phải lòng.
Nữ:
Bảy yêu em vợ anh chồng,
Tám yêu như bướm như ong một nhà.
- Vận về hoa:
Nam:
Vào chùa bứt là tam cung,
Bước xuống Tam Đảo hồ dung đôi đường.
Nữ:
Từ bi giãi nắng dầm sương,
Hoa cam hoa quýt anh thương hoa nào.
Nam:
Cùng như hoa mận hoa đào,
Cùng bông hoa cúc biết vào tay ai?
Nữ:
Xin chàng đừng thấm chớ phai,
Thoang thoảng hoa nhài mà lại thơm lâu.
Nam:
Xin nàng chớ phụ hoa ngâu,
Trăm nơi phú quý đi cầu mẫu đơn.
Nữ:
Xin chàng chớ phụ làm hờn,
Rồi ta mới được lên cơn tấn tần.
Nam:
Tìm hoa như nhụy tìm xuân,
Ước gì anh được đứng gần cội cây.
Em yêu ai em xê em dịch lại đây,
Em đừng mơ tưởng hoa mây hoa hòe.
Nữ:
Trèo lên hòn đá cheo leo,
Thấy hoa chúng chính lại đèo chàng Sinh.
Nam:
Lửng lơ hoa quế trên cành,
Em đừng mơ tưởng hoa chanh hoa bìm.
Nữ:
Hoa ông bụt mọc giữa thiên đình,
Ở giữa hoa huệ tứ bên hoa hòe.
Nam:
Dưới ao hoa muống hoa hòe,
Mặt trời vừa hé hoa dừa hoa cau.
Nữ:
Đố ai bấm được hoa đèn,
Rồi em mới được tiếng khen ở đời.
Nam:
Dễ ai bấm được hoa sung,
Rồi anh mới được anh hùng thuyền quyên.
Nữ:
Hoa sung chưa nở đã già,
Cùng bông hoa cải nở ra tháng mười.
- Làn quạt (hò quạt):
Nữ:
Cái quạt mười tám cái xương,
Mang về mà giữ mà nương lấy màu.
Nam:
Lúc nắng thì để che đầu,
Lúc bức lúc sốt thì đâu cũng cần.
Nữ:
Quạt này là quạt trí ân,
Cầm quạt che miệng cười thầm đôi ta.
Nam:
Quạt này phú huyện đường xa,
Hai bên tần tấn một nhà.
Nữ:
Quạt này lúc đứng lại ngồi,
Rồi ra ta hãy ngậm ngùi năm canh.
Nam:
Quạt này anh hãy để giành,
Rồi ra quạt mát mặt anh mặt nường.
Lúc bức lúc sốt chị nhiều ơi,
Lại đây ta sẽ chung đôi vợ chồng.
Nữ:
Quạt xinh xinh là tình chiếc quạt
Khen ai khéo tạo ra cái quạt này
Lúc khôn lúc khéo lúc hay lúc tài
Quạt này những trúc cùng mai
Ở trong yểu điệu ở ngoài chắt chiu.
Nam:
Quạt này những long cùng ly,
Những rồng cùng phượng những quy cùng trầu.
Nữ:
Quạt này nhuộm cho đủ màu
Xanh đen vàng tím như màu tím vang
Quạt này bích bạc lại vàng
Ở giữa mặt nguyệt đối đảng bài thơ.
- Làn trầu
Nữ:
Cách nhau một bức giậu thưa,
Tay gạt nước mắt tay đưa miếng trầu.
Nam:
Trầu này trầu tính trầu tình,
Cho Loan nhớ Phượng cho mình nhớ ta.
Nữ:
Trầu này têm tối hôm qua,
Trộm thầy giấu mẹ em đem cho chàng.
Nam:
Trầu này không phải trầu hàng,
Không buồn không bán sao nàng không ăn.
Nữ:
Ăn trầu mới nhớ được lâu,
Không ăn nhớ trước quên sau mất rồi,
Nam:
Trầu này anh mua tận Quảng Ninh,
Ông Tơ bà nguyệt xe mình với ta.
Nữ:
Trầu này em mua đất Quảng Bình,
Ông tơ bà nguyệt xe mình với ta.
Nam:
Trầu này anh mua đất Ninh Bình,
Ông tơ bà nguyệt xe ta với mình.
Nữ:
Trầu này mua đất tỉnh Thanh,
Ông tơ bà nguyệt dẫn đường em mua.
Nam:
Trầu này anh mua đất Nga Sơn,
Ông tơ bà nguyệt dẫn đường anh mua.
Nữ:
Trầu này em mua chợ nhà,
Ông tơ bà nguyệt xe ta với mình.
Nam:
Đường xa mình đã đi rồi,
Chợ nhà cũng có mình thời mua chung.
Lời hát ghẹo ở Diêm Phố gồm ba chặng và chín lời, hát rất dài và không ổn định, người hát chỉ dựa vào cái sườn ấy mà sáng tạo lời cho phù hợp với tình cảnh của nơi diễn ra cuộc hát. Vì thế, những nét sinh hoạt đời thường, tình cảm nghề nghiệp, môi trường sinh sống...được phản ánh khá đậm trong lời hát. Chúng tôi chỉ trích mỗi chặng, mỗi lời một số câu để làm rõ nội dung và quy trình một cuộc hát ghẹo ở phần lễ hội của Lễ hội Cầu Ngư.
5.2.5. Thi bơi thuyền: Ngày 23 tháng Hai làng tổ chức thi bơi thuyền ngoài biển. Thi bơi thuyền trong lễ hội Cầu Ngư là việc không thể thiếu. Tuy nhiên, do biến động dòng chảy của cửa sông Lạch Trường và Lạch Sung đã thay đổi, không còn ở sát cạnh làng Diêm Phố nên việc thi bơi thuyền làng phải tổ chức ở trên biển. Trò thi đua thuyền là một trò chơi đòi hỏi nguồn kinh phí và nhân lực lớn của làng.
Về thể lệ chơi: Trước kia đầu và cuối đường đua được cắm cây chà (tre để cả cành làm tâm điểm), ngày nay người ta neo hai chéo tâm ở hai đầu với khoảng cách 500m làm đích. Các thuyền đua dàn thành hàng ngang và bơi theo số vòng được quy định từ 3 đến 5 vòng, có chiều dài khoảng 3 - 5km. Thủy triều lên, sóng biển rất lớn vì vậy những người bơi thuyền phải được làng chọn ra từ những cư dân cư khôi, khỏe mạnh, kinh nghiệm nghề sông nước. Trên bờ dân làng các thôn đứng chật để đánh trống, phất cờ, reo hò khích lệ đội thuyền của thôn mình. Thuyền nào được giải là niềm vui của dân làng, họ quan niệm năm đó sẽ làm ăn thuận lợi, may mắn, bình yên.
Cuộc đua kết thúc, đội nào thắng sẽ được trao giải ở đàn lễ.
https://youtu.be/q5d4dZQPRsc